Kể từ khi người Hungary đầu tiên giành giải thưởng Nobel năm 1905, quốc gia này đã thêm 12 điểm nữa vào bộ đệm. Với các nhà khoa học, nhà văn và nhà kinh tế đều được vinh danh trong các giải thưởng danh giá, chúng ta hãy xem một số người đoạt giải Nobel biểu tượng của Hungary.
Phillipp Lenard năm 1900 © AIP Emilio Segrè Lưu trữ trực quan, Viện Vật lý Hoa Kỳ / Wikimedia Commons
![Image Image](https://images.couriertrackers.com/img/hungary/8/introducing-hungaryquots-nobel-prize-winners.jpg)
![Image Image](https://images.couriertrackers.com/img/hungary/8/introducing-hungaryquots-nobel-prize-winners_1.jpg)
Phi-líp
Vật lý, 1905
Hít
Người chiến thắng giải thưởng Nobel đầu tiên của Hungary, Philipp Lenard được sinh ra trong thời đế chế Áo-Hung. Trong nửa đầu của cuộc đời, ông giữ quyền công dân Hungary, và trong thời gian này, ông đã giành giải thưởng Nobel Vật lý vào năm 1905, trước khi có được quyền công dân Đức vào năm 1907. Tuy nhiên, ông đã được trao giải thưởng cho công việc của mình trên tia catốt được nhiều người nhớ đến với vị trí sau này là Giám đốc Vật lý Aryan hoặc Đức trong chế độ Đức Quốc xã và niềm tin mãnh liệt vào sự vượt trội của khoa học Đức, hay 'Deutsche Physik'.
Robert Barany © Viện Y tế Quốc gia / Wikimedia Commons
![Image Image](https://images.couriertrackers.com/img/hungary/8/introducing-hungaryquots-nobel-prize-winners_2.jpg)
Robert Bárány
Y học, 1914
Vì công việc nghiên cứu về sinh lý và bệnh lý của bộ máy tiền đình
Sinh ra tại Vienna có cha mẹ là người Do Thái Hungary, Bárány giữ quốc tịch Áo-Hung và học ngành y tại Đại học Vienna. Đó là vào năm 1914, ông đã được trao giải thưởng Nobel về y học, tuy nhiên, sau khi bị Quân đội Nga bắt giữ khi đang làm quân y trong WW1, ông đã không thể nhận giải thưởng của mình. Sau khi được thả ra vào năm 1916, ông đã tham dự buổi lễ năm đó và nhận giải thưởng của mình.
Richard Adolf Zsigmondy
Hóa học, 1925
Đây là minh chứng cho tính chất không đồng nhất của các dung dịch keo và cho các phương pháp mà ông đã sử dụng, từ đó trở thành cơ bản trong hóa học keo hiện đại.
Sinh ra ở Vienna và mang quốc tịch Áo, cha mẹ của Szigmond là người Hungary. Quan tâm đến khoa học từ khi còn trẻ, Szigmondy đã đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của kính siêu âm khe và năm 1925 đã giành giải thưởng Nobel về hóa học cho nghiên cứu về các giải pháp keo.
Szent-Györgyi Albert © Fortepan / Semmelweis Đại học Lưu trữ / Wikimedia Commons
![Image Image](https://images.couriertrackers.com/img/hungary/8/introducing-hungaryquots-nobel-prize-winners_3.jpg)
Albert Szent-Györgi
Y học, 1937
Những khám phá của ông liên quan đến các quá trình đốt cháy sinh học, với sự tham khảo đặc biệt về vitamin C và sự xúc tác của axit fumaric.
Một trong những chất bổ sung vitamin nổi tiếng nhất trên thế giới hiện nay được phát hiện bởi nhà sinh lý học người Hungary, Albert Szent-Gyorgi, vào những năm 1930. Khi làm việc tại Đại học Szeged ở miền nam đất nước, ông đã phát hiện ra Vitamin C cùng với người nghiên cứu Joseph Svirbely, và chính điều này sẽ mang lại cho ông giải thưởng Nobel năm 1937.
George de Hevesy / Wikimedia Commons
![Image Image](https://images.couriertrackers.com/img/hungary/8/introducing-hungaryquots-nobel-prize-winners_4.jpg)
George de Hevesy
Hóa học, 1943
Công trình của ông về việc sử dụng các đồng vị làm chất đánh dấu trong nghiên cứu các quá trình hóa học
Nhà hóa học người Hungary George de Hevesy bắt đầu sự nghiệp khoa học của mình tại Đại học Budapest, nơi ông học hóa học, trước khi chuyển đến nhiều quốc gia khác nhau trên khắp châu Âu. Ông đã biến Copenhagen thành nhà của mình vào năm 1920 trước khi bị buộc phải chuyển đến Stockholm trong WW2 nhờ vào dòng dõi Do Thái của mình. Chính tại đây, ông đã giành được giải thưởng Nobel.
Georg von Békésy
Y học, 1961
Cho những khám phá của ông về cơ chế kích thích vật lý trong ốc tai
Sau khi theo học tại Budapest, nhà sinh lý học người Hungary George von Békésy tiếp tục học ngành hóa học ở Bern, Thụy Sĩ. Sau khi có hứng thú với cách thức hoạt động của tai trong Thế chiến II, trước tiên anh chuyển đến Thụy Điển và sau đó đến Đại học Harvard ở Mỹ - nơi, vào năm 1961, anh sẽ được trao giải thưởng Nobel về y học. Cuối cùng anh ta định cư ở Honolulu, Hawaii.
Wigner
Vật lý, 1963
Sự đóng góp của ông cho lý thuyết về hạt nhân nguyên tử và các hạt cơ bản, đặc biệt thông qua việc khám phá và áp dụng các nguyên tắc đối xứng cơ bản
Khi ông sinh ra ở Budapest năm 1902 và mang quốc tịch Hungary cho đến năm 1937, với tư cách là một công dân Mỹ, Wigner sẽ giành giải thưởng Nobel năm 1963. Ông bắt đầu giáo dục tại Đại học Khoa học Kỹ thuật Budapest, trước khi chuyển đến Đức để hoàn thành học. Năm 1930, ông bắt đầu sự nghiệp tại Đại học Princeton ở Mỹ, trở thành công dân nhập tịch vào năm 1937. Ông sẽ tiếp tục làm việc trong Dự án Manhattan để tạo ra vũ khí hạt nhân đầu tiên.
Dénes Gábor 1988 tem Hungary © Bưu điện Hungary / Wikimedia Commons
![Image Image](https://images.couriertrackers.com/img/hungary/8/introducing-hungaryquots-nobel-prize-winners_5.jpg)
Dennis Gabor
Vật lý, 1971
Để phát minh và phát triển phương pháp ba chiều
Sinh ra từ cha mẹ Do Thái Hungary ở Budapest, Gabor đã dành thời gian phục vụ ở Ý trong Thế chiến I trước khi trở về nhà để học đầu tiên tại Đại học Kỹ thuật Budapest, sau đó tại Đại học Kỹ thuật Charlottenburg ở Berlin. Sự quan tâm của ông đối với quang học điện tử đã được khơi dậy từ rất sớm trong sự nghiệp và sau khi thoát khỏi Đức Quốc xã trong Thế chiến II, ông đã đảm nhận một vị trí tại công ty Thomson-Houston của Anh. Trong thời gian này, vào năm 1947, ông đã phát minh ra hình ba chiều và sẽ tiếp tục là công cụ phát triển trong suốt những năm qua. Chính vì điều này mà ông đã được trao giải thưởng Nobel về Vật lý năm 1971.
John Harsanyi
Kinh tế, 1994
Phân tích tiên phong của người Viking về sự cân bằng trong lý thuyết về các trò chơi không hợp tác.
Thoát khỏi bị trục xuất đến một trại tập trung dưới chế độ Mũi tên chéo ở Hungary trước khi bị buộc rời khỏi đất nước dưới chế độ Cộng sản vào năm 1950, Harsanyi trước tiên chuyển đến Úc để theo đuổi sở thích nghiên cứu lý thuyết trò chơi liên quan đến Kinh tế học. Chính sự quan tâm này cuối cùng sẽ dẫn đến việc ông giành giải thưởng Nobel năm 1994.